Lịch sử Bồn_Man

Thành lập

Dân tộc Tai Phuan hoặc người Phuan là một nhóm dân tộc Thái-Lào theo Phật giáo, di cư từ miền Tây Nam Trung Quốc đến (Ai Lao) Lào. Khoảng cuối thế kỷ 13 đã hình thành bộ lạc độc lập sống tập trung ở Cánh đồng Chum (trên cao nguyên Xiêng Khoảng).

Tiểu quốc Bồn Man của Người Tai Phuan được thành lập vào khoảng năm 1369 sau khi nhà Nguyên mất quyền kiểm soát ở Vân Nam vào tay nhà Minh bên Trung Quốc. Các bộ tộc người Thái ở phía nam Vân Nam giành được cơ hội độc lập trong lãnh thổ họ cư trú.

Ranh giới Bồn Man với phía Bắc, phía Tây và phía Nam là vương quốc Lan Xang[2], phía Đông là Đại Việt. Ban đầu, khoảng nửa cuối thế kỷ 14, Bồn Man được hợp nhất vào Lan Xang dưới thời vua Fa Ngum[3][4].

Vương quốc Bồn Man được các tù trưởng thuộc dòng họ Cầm cai trị, với thủ đô là Xieng Khouang[5], dân số ước chừng 9 vạn hộ[6]. Tuy nhiên, tiểu quốc Bồn Man đã có một quyền tự chủ cao trước Lan Xang, mặc dù họ đã phải cống nạp thuế cho Lan Xang.

Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mụcː "Tháng 7, mùa thu. 1448. Tồn Bồn Man cầu xin phụ thuộc về ta. Triều đình đem đất của Tồn Bồn Man đặt làm châu Quy Hợp. Lời chua - Tồn Bồn Man: Đất này ở về phía tây tỉnh Nghệ An, đông nam giáp miền thượng du Nghệ An và phần rừng rú thuộc Quảng Bình, tây bắc giáp châu Ninh Biên thuộc Hưng Hóa và miền thượng du thuộc Thanh Hóa, phía dưới tiếp giáp với Quỳ Châu và Tương Dương thuộc Nghệ An. Tồn Bồn Man còn tên nữa là Bồn Man, Cầm Lư thị nối đới làm thổ tù. Khi Lê Thái Tổ đã khai quốc, Bồn Man mới bắt đầu đến triều cống. Dưới triều Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ 5 (1447), Bồn Man đến tiến cống voi và xin phụ thuộc về ta. Nhà vua xuống chiếu cho đổi Bồn Man làm châu Quy Hợp lệ thuộc vào phủ Lâm An. Theo Nhất thống chí của Lê Định thì châu Quy Hợp có 12 sách và động, đều là dân người Mán cả. Có quan quân đóng ở đó để phòng thủ. Từ đồn Quy Hợp này đi lên phía tây thì đến phủ Trấn Ninh, đường dài 1.929 tầm. Đó là con đường mà nước Vạn Tượng sang ta triều cống tất phải đi qua."

Theo cuốn Lịch sử Lào của M.L. Manich:

Từ thế kỷ thứ 7 thời vua Piloko, hoàng tử Chet Chuang con trai Piloko đã được gửi đến cai trị Xiêng Khoảng. Sau đó khoảng năm 698, Muang Phuan hoặc Xiengkhuang được thành lập bởi hoàng tử Chet Chuang. Từ đó Chieng Khouang Muang Phuan trở thành một quốc gia bộ lạc tồn tại độc lập bên cạnh các quốc gia Chiang Saen, Sukhothai nối tiếp nhau của người Thái-Lào và sau đó là Lan Xang của Phà Ngừm. Đến thời Phà Ngừm, ông chinh phục được các vương quốc Lào cổ trong đó có cả Chieng Khouang, nhập vào Lan Xang. Riêng Bồn Man vào năm 1349, Phà Ngừm thu nạp được là nhờ sự liên kết với hoàng tử Khio Kamyor, con của tù trưởng Xieng Khouang lúc đó là Chao Kamphong, chống lại cha mình.

Tên của các vị tù trưởng (vua) của Bồn Man, cai trị Chieng Khuoang sau Chet Chuang, cho đến trước thời nước Lan Xang ra đời bên cạnh Bồn Man, là:

Chetchuan, Chetchod, Chetchue, Chetchan, Chetyod Yohkam, Chao Pra Yeehin, Chao Pra Kue, Chao Kamlun, Chao Kampeng, Chao Kamkhod, Chao Kamrong, Chao Kamchaek, Chao Kamphan, Chao Ruea, Chao Rueang (chỉ như là nhiếp chính), Chao Kampin (con trai của Kamphan), Chao Kamton, Chao Kamtodsak, Chao Kamkuon, Chao Kamluon, Chao Kamnah, Chao Kamtao, Chao Kamkao, Chao Kamphong.[7]

Xung đột với Đại Việt

Một phần của loạt bài về
Các vương quốc cổ ở
Việt Nam
Việt Thường (? TCN - ? TCN)
Nam Việt (207 - 111 TCN)
Phù Nam (1 - 630)
Chăm Pa (192 - 1832)
Chân Lạp (550 - 802)
Ngưu Hống (1067 - 1337)
Bồn Man (1369 - 1478)
Tiểu quốc J'rai (TK 15- TK 19)
Tiểu quốc Mạ (TK 15 - TK 17)
Tiểu quốc Adham (TK 18 - TK 19)
Vương quốc Xơ Đăng (1888 - 1890)

Nguyên do một phần đất Bồn Man đã xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông, được vua Nhân Tông nhập vào nước Đại Việt, thành châu Quy Hợp xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Lư Cầm đời đời làm Phụ đạo.

Năm 1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với Lan Xang đem binh quấy nhiễu châu Quy Hợp[8]. Vua Lê Thánh Tông sai các tướng Lê Thọ Vực, Trịnh Công Lệ... đánh quân Bồn Man và Lão Qua. Quân Đại Việt đi chia làm 5 đạo từ Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Hóa và đã đánh bại đồng thời đánh đuổi tới lưu vực sông Mê Kông giáp với Miến Điện ngày nay.

Theo Việt Nam sử lược thì: Sau khi Cầm Công bị giết, vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập lãnh thổ Bồn Man vào Đại Việt, đặt tên là Phủ Trấn Ninh và giao cho một người họ hàng của Cầm Công là (Lư) Cầm Đông làm Tuyên úy Đại sứ và đặt các quan cai trị (Quy Hợp) như trước.[9]. Vùng đất này đặt thành phủ Trấn Ninh, gồm 7 huyện là:

  1. Cảnh Thuần
  2. Châu Lang
  3. Kim Sơn
  4. Minh Quảng
  5. Quang Vinh
  6. Thanh Vị
  7. Trung Thuận.

Sáp nhập vào Việt Nam

Phần lãnh thổ Bồn Man thuộc về Việt Nam từ năm 1479 thời vua Lê Thánh Tông (ít phụ thuộc Lão Qua (Lan Xang) hơn), nhưng dưới hình thức tự trị (địa phương tự xử lý việc nội bộ), cho thổ quan là người họ Cầm cai quản, mà không cử lưu quan sang cai trị. Về mặt hành chính, lãnh thổ Bồn Man được Đại Việt xem là thuộc xứ Nghệ An của Đại Việt.

Năm 1707, khi nhà nước Lan Xang phân rã thành 3 tiểu quốc nhỏ: Vương quốc Vientiane[10], Vương quốc Luang Phrabang[11]Vương quốc Champasak[12] thì Muang Phuan trở thành một tiểu quốc chư hầu của Vương quốc Luang Phrabang.[cần dẫn nguồn]

Năm 1720, Muang Phuan phụ giúp vương quốc Luang Prabang trong cuộc chiến chống lại vương quốc của người Miến và người Xiêm. Dưới sự lãnh đạo của Chao Kham Sattha, Muang Phuan một lần nữa tham gia cuộc chiến với vùng Thakhek, 1 chư hầu của Vương quốc Vientiane[10].

Vào khoảng thời gian cuối những năm Vĩnh Hựu (1735-1739) thời Lê Ý Tông, Trấn Ninh (với cả Sầm Châu và Trình Quang) bị một hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật chiếm cứ (bắt giam tù trưởng Trấn Ninh là (Lư) Cầm Hương), chống lại nhà Lê-Trịnh[13]. Năm 1770, Trịnh Sâm điều quân sang đánh dẹp Lê Duy Mật, lập lại Trấn Ninh và giao cho cháu Cầm HươngLư Cầm Uẩn làm tù trưởng. Đến cuối thế kỷ 18 (thập niên 1770), vương quốc Xiêm đã hình thành và lớn mạnh, thì Muang Phuan (Trấn Ninh), trở thành một chư hầu của Xiêm[cần dẫn nguồn], nhưng vẫn triều cống Đại Việt.

Thời nhà Tây Sơn Việt Nam, các tù trưởng Trấn Ninh, theo XiêmVạn Tượng (Viêng Chăn) chống lại nhà Tây Sơn. Năm 1791, Trần Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng Thiệu Kiểu, Thiệu Đế của Trấn Ninh.

Bị Gia Long cắt cho Vạn Tượng

Thời nhà Nguyễn, Gia Long đem đất Trấn Ninh cắt về cho vương quốc Vạn Tượng của A Nỗ (Anouvong). Sự việc này được chép ngắn gọn trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục:

Trấn Ninh: Đất Bồn Man xưa, hồi đầu triều Lê, họ Cầm nối nhau làm phụ đạo; đến Lê Thánh Tông chia đất này lập ra làm phủ Trấn Ninh, quản lãnh 7 huyện: Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Minh, Minh Quảng, Quang Lang và Tư Thuận, cho họ Cầm nối đời làm tù trưởng. Cuối năm Vĩnh Hựu (niên hiệu Lê Ý Tông 1735-1739), Lê Duy Mật chiếm cứ, đến năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770) mới dẹp yên được, lại cho họ Cầm được nối đời quản trị. Bản Triều, năm Gia Long thứ nhất (1802) đem đất ấy phong cho nước Vạn tượng.

Đại Nam thực lục cũng chép:

Trước kia vua từ thành Gia Định ra đánh miền Bắc, quốc trưởng nước Vạn Tượng là Chiêu ấn nhiều lần cho binh theo quan quân ở miền thượng đạo đi đánh giặc. Khi Bắc Hà đã định, vua lấy đất Trấn Ninh ban cho.

Như vậy sau hơn 300 năm thuộc về lãnh thổ Đại Việt dưới thời nhà Hậu Lênhà Tây Sơn, Trấn Ninh đã bị cắt cho nước khác. Xét về diện tích, đây là lần bị mất lãnh thổ lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam, chỉ đứng sau việc Tự Đức cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho thực dân Pháp. Xét về nguyên nhân thì lần mất lãnh thổ này là đáng tiếc nhất, chỉ vì Gia Long muốn lôi kéo vương quốc Vạn Tượng nên tự cắt đất chứ không phải vì bị quân đội nước ngoài xâm chiếm.

Minh Mạng tái chiếm

Khi Chiêu Xanh, tù trưởng Trấn Ninh khi ấy chết, A Nỗ không lập con Chiêu XanhChiêu Nội (Chao Noi) lên, nên Chiêu Nội thù A Nỗ, đồng thời Chiêu Nội chạy sang phủ Trà Lân xứ Nghệ và xin nội thuộc lại Đại Nam (nhà Nguyễn).

Đại Nam Thực Lục ghi lại sự kiện nước Vientiane diệt vong và Minh Mạng ra lệnh lấy lại phủ Trấn Ninh như sau:

Trấn Ninh vốn là bờ cõi cũ của ta, xưa đức Tiên đế đem cho Vạn Tượng, không tính đến tiết nhỏ. Nay A Nỗ xiêu dạt, tù trưởng đất ấy không chỗ nương tựa, lại đem đất ấy dâng ta, thế là ta không mất một mũi tên mà được người xa thần phục, kinh lược như thế là có tiếng giỏi. Vả lại đất ấy hiểm yếu, đời Lê trước Lê Duy Mật chiếm giữ hơn 30 năm, nhà Lê không làm gì được, hình thế vững chắc như thế đấy. Nay lại về ta, thực đủ san phẳng sào huyệt của kẻ gian mà thêm phên giậu mạnh cho nước nhà”

Đến khi A Nỗ chống lại nước Xiêm, bị vua Xiêm là Rama III sai Chao Phraya Bodin Decha đánh cho thua chạy sang Nghệ An, qua Trấn Ninh bị Chiêu Nội bắt nộp cho Xiêm năm 1828[14]. Chiêu Nội bị Minh Mạng khép tội chết vì hành động này.

Sau khi giết Chiêu Nội, nhà Nguyễn cử quan Việt sang cai trị Trấn Ninh. Năm 1823, nhà Nguyễn đặt thêm huyện Liêm. Phủ Trấn Ninh từ đấy bao gồm 7 huyện:

  1. Liên,
  2. Khâm,
  3. Quảng,
  4. Khang,
  5. Cát,
  6. Xôi,
  7. Mộc,
  8. Liêm (vốn là mán Mường Hiểm).

Tháng 3/1832, nổ ra cuộc khởi nghĩa của hơn 200 binh lính Trấn Ninh, do Trần TứĐỗ Bắc lãnh đạo, nổi dậy chống nhà Nguyễn và liên kết với cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương. Những năm 1833-1834, trong chiến tranh Việt-Xiêm, người Thái tấn công Đại Nam (một trong các hướng là qua ngả Trấn Ninh), đất Trấn Ninh bị người Thái lấn dần. Khi người Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm 1893, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh Houaphan (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao).

Trấn Ninh năm 1893